Hẹp khí quản là gì? Các công bố khoa học về Hẹp khí quản

Hẹp khí quản là một tình trạng mà đường dẫn dẫn không khí từ mũi và miệng vào phổi bị thu hẹp hoặc bị cản trở. Điều này có thể là kết quả của các nguyên nhân nh...

Hẹp khí quản là một tình trạng mà đường dẫn dẫn không khí từ mũi và miệng vào phổi bị thu hẹp hoặc bị cản trở. Điều này có thể là kết quả của các nguyên nhân như viêm nhiễm, vi khuẩn, virus hoặc phản ứng dị ứng. Khi khí quản bị hẹp, việc hít thở trở nên khó khăn và gây ra các triệu chứng như khò khè, khó thở, ngực căng và đau ngực. Nếu không được điều trị kịp thời, hẹp khí quản có thể gây tử vong.
Hẹp khí quản có thể xảy ra ở mọi độ tuổi, từ trẻ sơ sinh đến người lớn. Có nhiều nguyên nhân có thể gây ra hẹp khí quản, bao gồm:

1. Viêm nhiễm đường hô hấp: Vi khuẩn hoặc virus gây viêm và làm sưng khí quản, gây hẹp đường dẫn không khí. Các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp như cảm lạnh, cúm, viêm phế quản, viêm phổi có thể dẫn đến hẹp khí quản.

2. Cơ chế phản ứng dị ứng: Một số người có khả năng phản ứng dị ứng với các dịch vật gây kích thích hoặc dị ứng, chẳng hạn như bụi mịn, phấn hoa, chất gây dị ứng. Khi tiếp xúc với những dịch vật này, họ có thể bị co thắt và hẹp khí quản.

3. Bệnh hen suyễn: Là một bệnh mãn tính, hen suyễn gây sự co thắt và hẹp khí quản do tăng sản xuất các chất gây co thắt như histamine.

4. Tổn thương khí quản: Một số tổn thương, chẳng hạn như bị trầy xước, viêm, hoặc sẹo trên bên trong của khí quản, có thể làm hẹp đường dẫn không khí.

Những triệu chứng của hẹp khí quản bao gồm:

- Khò khè và ho thông thường.
- Khó thở và thở nhanh.
- Sự khó khăn trong việc hít thở và ý thức của bạn.
- Cảm giác ngặt thở hoặc ngực bị u áp.
- Đau ngực và cơn ho dữ dội.
- Thay đổi màu da do thiếu oxy.

Điều trị hẹp khí quản tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra và mức độ hẹp. Phương pháp điều trị thông thường bao gồm thuốc corticosteroid và bronchodilator để giảm viêm và mở rộng đường dẫn không khí. Trong trường hợp nghiêm trọng, cần y tế khẩn cấp và thực hiện phẫu thuật để loại bỏ các tắc nghẽn trong khí quản.
Hẹp khí quản là một tình trạng mà đường dẫn không khí từ mũi và miệng vào phổi bị thu hẹp hoặc bị cản trở. Đây là một hiện tượng gặp phổ biến trong các bệnh lý hô hấp, và có thể gây ra các triệu chứng từ nhẹ đến nặng. Dưới đây là một số nguyên nhân và thông tin chi tiết về hẹp khí quản:

1. Viêm phế quản: Khi phế quản bị viêm, sưng hoặc nhiễm trùng, nó có thể dẫn đến hẹp khí quản. Viêm phế quản thường là kết quả của vi khuẩn hoặc virus khiến niêm mạc phế quản trở nên sưng, làm cản trở lưu thông không khí.

2. Viêm phế quản cấp tính: Đây là một bệnh viêm phế quản nhanh chóng phát triển và thường gây hẹp khí quản. Nó thường là do các virus như vi rút ho gà, vi rút cúm hoặc vi rút syncytial.

3. Hen suyễn: Hen suyễn là một bệnh mãn tính làm tắc nghẽn đường thở, gây ra triệu chứng như ho lâu dài, cảm giác ngực khó thoát khí và ngực căng. Hẹp khí quản là một thành phần chính của hen suyễn, khi các phế quản bị co thắt và làm giảm lưu lượng không khí.

4. Phản ứng dị ứng: Phản ứng dị ứng có thể xảy ra khi hệ thống miễn dịch phản ứng với các chất kích thích như phấn hoa, bụi nhà, côn trùng, chất gây dị ứng hoặc thuốc. Khi tiếp xúc với các chất gây dị ứng, các phế quản có thể co thắt và gây hẹp khí quản.

5. Tổn thương khí quản: Các tổn thương trực tiếp lên các phế quản có thể gây ra hẹp khí quản. Điều này có thể xảy ra sau khi nhịp tim hoặc ho giật mạnh, hoặc trong các trường hợp tai nạn gây chấn thương lên vùng ngực.

6. Các yếu tố khác: Có một số yếu tố khác có thể gây hẹp khí quản, chẳng hạn như u xơ phế quản (tumor tạo khối trong phế quản), dị vật hoặc cơ chế kích thích từ môi trường như hơi kim loại nặng, hơi hóa chất độc hại hoặc hơi thay thế.

Triệu chứng của hẹp khí quản bao gồm khò khè, khó thở, ngực căng, đau ngực, hơi thở giữa hai cửa ngạnh, và thậm chí có thể gây hội chứng păng xê (sự dừng hô hấp).

Để chẩn đoán hẹp khí quản, các xét nghiệm như x-quang ngực, xét nghiệm chức năng phổi, thử nghiệm dị ứng và các xét nghiệm hình ảnh (ví dụ như CT scan) có thể được sử dụng.

Để điều trị hẹp khí quản, phương pháp tùy thuộc vào nguyên nhân và mức độ hẹp. Điều trị có thể bao gồm thuốc corticosteroid để giảm viêm, thuốc dẫn truyền bronchodilator để mở rộng lumen phế quản và có thể y tế khẩn cấp nếu cần.

Nếu bạn nghi ngờ mình bị hẹp khí quản hoặc có bất kỳ triệu chứng nào liên quan, hãy tham khảo ý kiến ​​của một bác sĩ để được đánh giá và điều trị đúng cách.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hẹp khí quản":

Phản ứng của lymphocyte T độc tế bào đối với virus Cytomegalovirus sau khi ghép tủy xương đồng loại ở người: Mô hình phục hồi và mối tương quan với nhiễm virus Cytomegalovirus và bệnh lý Dịch bởi AI
Blood - Tập 78 Số 5 - Trang 1373-1380 - 1991
Tỷ lệ bệnh nặng do virus Cytomegalovirus (CMV) sau khi ghép tủy xương (BMT) cao có liên quan đến sự suy giảm miễn dịch sâu sắc sau ghép. Do lymphocyte T độc tế bào (CTL) đã được đề cập trong khả năng chống lại nhiễm virus, chúng tôi đã xem xét việc phục hồi phản ứng CTL đặc hiệu với CMV ở 20 bệnh nhân được ghép tủy từ những người cho có HLA tương thích và dương tính với CMV. Mẫu máu đã được thu thập từ các bệnh nhân sau 1, 2 và 3 tháng BMT và từ các người hiến tặng trong một lần duy nhất. Các tế bào đơn nhân máu ngoại vi đã được nuôi cấy đồng thời với các nguyên bào sợi nhiễm CMV từ người hiến tặng trong 2 tuần và sau đó được thử nghiệm khả năng tiêu diệt đối với các nguyên bào sợi tự thân bị nhiễm và không bị nhiễm CMV hoặc không tương thích HLA. Hoạt tính ly giải đã được phát hiện ở cả 20 người cho, với tính đặc hiệu đối với các mục tiêu bị nhiễm CMV tự thân thể hiện rõ ràng ở 17 người (tỷ lệ ly giải CMV đặc hiệu trung vị ở tỷ lệ hiệu ứng:mục tiêu là 15:1 là 32%, dao động từ 18% đến 83%). Ly giải đặc hiệu được trung gian bởi các tế bào T CD8+, bị hạn chế bởi lớp I, như đã chỉ ra bởi sự ức chế với kháng thể đơn dòng chống lớp I và bởi sự giảm chọn lọc các tế bào hiệu ứng. Ngược lại, CTL đặc hiệu với CMV chỉ được phát hiện ở 10 trong số 20 bệnh nhân sau BMT (tỷ lệ ly giải trung vị 29% sau 3 tháng BMT). Không bệnh nhân nào trong số 10 bệnh nhân này phát triển bệnh phổi do CMV, trong khi 6 trong 10 bệnh nhân với phản ứng CTL đặc hiệu với CMV không thể phát hiện được sau BMT đã tử vong do bệnh phổi CMV. Những kết quả này chứng tỏ rằng việc phục hồi phản ứng CTL đặc hiệu với CMV có thể cần một thời gian kéo dài hơn sau BMT ở một số bệnh nhân, và những bệnh nhân này có nguy cơ cao phát triển bệnh nặng do CMV. Hiện tại, các phương pháp nhằm phục hồi khả năng miễn dịch CMV ở bệnh nhân BMT bằng cách chuyển giao các clone CTL CD8+ đặc hiệu với CMV từ người hiến tủy xương đang được theo đuổi.
#Cytomegalovirus #bệnh nặng #ghép tủy xương #lymphocyte T độc tế bào #phục hồi miễn dịch
Bệnh lao lan tỏa sau khi ghép tế bào gốc không liên quan lần thứ hai cho bệnh bạch cầu cấp myelogenous Dịch bởi AI
Transplant Infectious Disease - Tập 11 Số 1 - Trang 75-77 - 2009

Tóm tắt: Chúng tôi báo cáo trường hợp của một phụ nữ Nhật Bản 43 tuổi mắc bệnh bạch cầu cấp myelogenous, người đã trải qua 2 lần ghép tế bào gốc dây rốn không liên quan (UCBT), dẫn đến bệnh lao (TB) lan tỏa dẫn đến tử vong. Bệnh nhân không đạt được tình trạng thuyên giảm mặc dù đã tiến hành hóa trị liệu tích cực, và sau đó đã thực hiện UCBT với một chế độ điều trị chuẩn. Tuy nhiên, việc cấy ghép không thành công. Năm mươi ngày sau lần UCBT đầu tiên, bệnh nhân đã trải qua lần UCBT thứ hai với một chế độ điều trị giảm cường độ. Cô đã phát triển một phản ứng miễn dịch trước cấy ghép, phản ứng tốt với prednisolon, và việc cấy ghép đã được ghi nhận. Tuy nhiên, 50 ngày sau UCBT thứ hai, bệnh nhân xuất hiện sốt cao và phát triển viêm phổi mặc dù đã điều trị kháng sinh và kháng nấm. Sau đó, Mycobacterium tuberculosis được phát hiện trong các mẫu nuôi cấy máu và các mẫu rửa phế quản phế nang, cho thấy bệnh lao lan tỏa. Mặc dù đã điều trị lao, cô đã tử vong vào ngày 85. TB nên luôn được coi là một chẩn đoán có thể trong quá trình điều trị cho những bệnh nhân suy giảm miễn dịch có sốt.

#bệnh lao #bệnh bạch cầu cấp myelogenous #ghép tế bào gốc #bệnh nhân suy giảm miễn dịch
Đánh giá hiệu quả kiểm soát hô hấp của phương pháp thông khí cao tần trong phẫu thuật cắt nối và tạo hình khí quản
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả kiểm soát hô hấp của phương pháp thông khí cao tần trong phẫu thuật cắt nối và tạo hình khí quản. Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 9/2015 đến tháng 1/2019 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, 41 bệnh nhân hẹp khí quản có độ tuổi từ 15 đến 75 tuổi đã được phẫu thuật cắt nối khí quản dưới gây mê kiểm soát đường thở bằng phương pháp thông khí cao tần. Trong phẫu thuật, một catheter 12Fr được luồn qua khí quản, cách carina khoảng 3cm, thông khí cao tần bằng tay với máy Manual Jet Ventilation (VBM Medizintechnik GmbH, Germany) với tần số 100 - 150 lần/phút, áp lực 0 - 3,5bar (0 - 51psi, không vượt quá 51psi), FiO2 100%. Kết quả: Thời gian thông khí cao tần trung bình là 31,9 ± 9,9 phút. Huyết động của bệnh nhân ổn định trong suốt quá trình phẫu thuật, trường mổ mở rộng thuận lợi cho phẫu thuật. Tất cả 41 bệnh nhân được gây mê hồi sức an toàn trong mổ. Khí máu động mạch trung bình sau thông khí cao tần 15 phút pH là 7,33 ± 0,99, PaO2 là 308,8 ± 130,0, PaCO2 là 45,6 ± 10,2, HCO3 là 28,7 ± 7,8, khí máu động mạch tương ứng sau thông khí cao tần 30 phút là 7,29 ± 0,06, 295,6 ± 124,0, 52,2 ± 11,1, 30,6 ± 6,4, kết thúc thông khí cao tần 15 phút là 7,42 ± 0,06, 273,9 ± 78,0, 37,8 ± 5,6, 28,5 ± 5,8. PaCO2 tăng sau thông khí cao tần 30 phút, nhưng trở về giá trị bình thường sau kết thúc thông khí cao tần 15 phút. Sau mổ, 31 bệnh nhân rút ống nội khí quản ngay sau mổ, 10 bệnh nhân rút ống tại đơn vị hồi sức tích cực. Kết luận: Thông khí cao tần có thể áp dụng đảm bảo an toàn trong phẫu thuật cắt nối tạo hình khí quản. Từ khóa: Hẹp khí quản, cắt nối và tạo hình khí quản, thông khí cao tần cơ học.  
#Hẹp khí quản #cắt nối và tạo hình khí quản #thông khí cao tần cơ học
Phẫu thuật sửa chữa hẹp khí quản và quai động mạch phổi bẩm sinh
Hẹp khí quản bẩm sinh thường đi kèm với dị dạngquai động mạch phổi bẩm sinh.Nếu không phẫu thuậtsửa chữa, trẻthường khó thở, suy hô hấp kéo dài, suydinh dưỡng, suy kiệt, dẫn đến tử vong.Từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2013, có 4 bệnhnhân từ 8 -12 tháng tuổi códị dạng khí quản đã đượcphẫu thuật. Trong đó 3 trường hợp có dị dạng quaiđộng mạch phổi, 3 trường hợphẹp có dị dạngphế khíquản. 1 trường hợp hẹp khí quản không dị dạng.Đoạn khí quản hẹp được tái tạo dạng trượt (3 trườnghợp), cắt bỏ phối hợp trượt (1 trường hợp).3 trường hợpquai mạch được chuyển trả về phía trước khí quản màkhông cần cắt cắm lại động mạch phổi trái.Sau phẫu thuật, tình trạng khó thở, viêm nhiễmđường hô hấp giảm rõ ở2 trường hợp và chấm dứthoàn toàn ở 2 trường hợp. Không có tử vong.Phẫu thuật sửa chữa và tái tạo khí quản là phươngpháp hiệu quả đối với dị dạng khí quản bẩm sinh. Nếucó quai mạch kèm theo, cần xử trí cả hai trong một lầnmổ. Theo dõi ngắn hạn sau mổ cho thấy kết quả tốt.Cần có theo dõi dài hạn để đánh giá thêm.Từ khoá: hẹp khí quản bẩm sinh, phế khí quản,quai động mạch phổi, tạo hình trượt
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT HẸP KHÍ QUẢN BẨM SINH TẠI TRUNG TÂM TIM MẠCH TRẺ EM-BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Hẹp khí quản bẩm sinh do vòng sụn khép kín là tổn thương đường thở nặng nề ở trẻ em. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật điều trị bệnh hẹp khí quản bẩm sinh tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương sử dụng kỹ thuật trượt tạo hình khí quản. Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 3 năm 2021, toàn bộ các bệnh nhân chẩn đoán hẹp khí quản do vòng sụn khép kín được phẫu thuật điều trị bằng kỹ thuật trượt tạo hình khí quản được thu thập dữ liệu và đưa vào nghiên cứu. Kết quả: Tổng số 75 trường hợp được tạo hình khí quản trượt trong thời gian nghiên cứu. Tuổi phẫu thuật trung bình của nhóm nghiên cứu là 7 tháng (nhỏ nhất: 7 ngày tuổi; lớn nhất: 5.5  tuổi). Chiều dài trung bình của đoạn hẹp khí quản là 4.5cm (ngắn nhất: 2cm; dài nhất 6cm). Có 5 bệnh nhân (6.7%) tử vong sớm sau phẫu thuật (trong thời gian nằm viện hoặc sau điều trị phẫu thuật 30 ngày), và 2 bệnh nhân tử vong muộn (2.6%). Có 3 bệnh nhân (4%) cần mổ lại sau phẫu thuật trượt tạo hình khí quản với thời gian theo dõi trung bình sau phẫu thuật là 20.6 14.9 tháng. Có 20 bệnh nhân (26.7%) hẹp khí quản đơn thuần, 55 trường hợp (73.3%) có kèm theo các thương tổn khác trong tim (sling động mạch phổi, thất phải hai đường ra, thông liên thất, tứ chứng Fallot, chuyển gốc động mạch…).  Có 19 bệnh nhân thở máy trước mổ cần mổ cấp cứu, trong đó 6 trường hợp vừa hồi sinh tim phổi vừa mổ cấp cứu. Hình thái cây khí quản trong mổ cho thấy: 61 bệnh nhân (81.3%) có hình thái cây khí quản bình thường, 11 bệnh nhân (14.7%) có hình thái phế quản thuỳ trên phổi phải xuất phát sớm, 3 bệnh nhân (4%) có thiểu sản phổi phải với phế quản chính là phế quản trái. Kết luận: Kết quả bước đầu phẫu thuật trượt tạo hình khí quản trong điều trị bệnh hẹp khí quản bẩm sinh tại Trung tâm Tim mạch trẻ em-Bệnh viện Nhi Trung ương là xuất sắc, tương đương với kết quả điều trị cho bệnh lý đường thở phức tạp này tại các trung tâm lớn trên thế giới. Một nghiên cứu với thời gian theo dõi dài hơn là hoàn toàn cần thiết.
#hẹp khí quản bẩm sinh #vòng sụn khép kín #kỹ thuật trượt khí quản
Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh chụp cắt lớp vi tính và nội soi phế quản trên bệnh nhân hẹp khí phế quản do lao
Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, chúng tôi ghi nhận số công trình nghiên cứu về hẹp khí phế quản (KPQ) do lao còn hạn chế. Việc chẩn đoán vị trí, mức độ, chiều dài đoạn hẹp và các tổn thương kèm theo trong bệnh hẹp KPQ do lao là điều hết sức quan trọng và đóng vai trò quyết đinh cho các chỉ định điều trị phẫu thuật. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca trên 48 bệnh nhân hẹp KPQ do lao được điều trị bằng phẫu thuật tạo hình KPQ tại Khoa phẫu thuật lồng ngực, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong khoảng thời gian từ 01/01/2015 đến 31/12/2018. Kết quả: 48 BN hẹp KPQ bao gồm: 03 BN hẹp khí quản đoạn 1/3 giữa, 09 BN hẹp phế quản gốc phải, 36 BN hẹp phế quản gốc trái. Nhóm BN hẹp phế quản gốc (PQG), chúng tôi ghi nhận tỉ lệ nữ giới chiếm đa số là 91,1% và độ tuổi trung bình là 30,7 ± 10,1 tuổi. Trên CLVT, đa phần hẹp toàn bộ phế quản gốc chiếm tỉ lệ là 60%. Chiều dài đoạn hẹp trung bình là 26,2 mm, Đường kính lòng hẹp trung bình là 2mm. Ghi nhận có 42,2% hẹp tắc toàn bộ PQG và 37,8% xẹp toàn bộ phổi. Trên hình ảnh NSPQ, chúng tôi nhận thấy hình kiểu hẹp PQG thường gặp nhất là do xơ sẹo chiếm 93,3%, đường kính lòng đoạn hẹp trung bình 2,2mm. Kết luận: Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính dựng hình cây KPQ và nội soi phế quản trước mổ có vai trò quan trọng quyết định điều trị hẹp KPQ do lao.
#Lao nội phế quản #hẹp khí phế quản do lao #tạo hình khí phế
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH TRÊN CẮT LỚP VI TÍNH 128 DÃY CÓ DỰNG HÌNH BA CHIỀU TRONG BỆNH LÝ SẸO HẸP KHÍ QUẢN TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
TÓM TẮTMục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh trên cắt lớp vi tính (CLVT) trong bệnh lý sẹo hẹp khí quản.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 14 bệnh nhân được chẩn đoán sẹo hẹp khí quản tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 3/2019- 7/2020. Thu thập số kiệu bằng hồ sơ bệnh án, kết quả nội soi và phim chụp CLVT. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.Kết quả: Trong 14 bệnh nhân có 10 BN nam (71,4%), 4 BN nữ (28,6%). Độ tuổi trung bình 41.7±13.8. Nguyên nhân dẫn đến đặt nội khí quản (NKQ) và mở khí quản (MKQ) khá đa dạng, nhưng nhiều nhất vẫn là chấn thương sọ não do tai nạn giao thông (28,6%). Triệu chứng lâm sàng vào viện chủ yếu là khó thở thì thở vào, thở rít thanh quản. Đặc điểm sẹo hẹp khí quản trên CLVT: vị trí hẹp cách dây thanh trung bình là 29mm, hẹp độ III theo phân loại Cotton chiếm tỷ lệ cao nhất (71,4%), còn lại là hẹp độ II (28,6%), không có trường hợp nào hẹp độ I và độ IV, chiều dài đoạn hẹp trung bình là 20mm. Trên hình ảnh nội soi, vị trí hẹp cách dây thanh trung bình là 33mm. Có sự tương đương giữa CLVT 128 dãy có dựng hình ba chiều với nội soi trong đánh giá khoảng cách sẹo hẹp đến dây thanh, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0.05)
#Sẹo hẹp khí quản #CLVT 128 dãy #tương quan giữa CLVT và nội soi
Kết quả phẫu thuật tạo hình đường thở bằng kỹ thuật kéo trượt khí/ phế quản ở trẻ mắc tim bẩm sinh kèm hẹp đường thở nặng tại bệnh viện Tim Hà Nội: báo cáo loạt ca bệnh
Tóm tắt: Hẹp đường thở (khí, phế quản) ở trẻ em rất hiếm gặp, điều trị khó khăn và càng phức tạp hơn khi mắc kèm theo dị tật tim bẩm sinh. Đối với các trường hợp hẹp đường thở nặng và rất nặng, đã có nhiều phương pháp điều trị khác nhau được tiến hành thành công. Tuy nhiên, phẫu thuật tạo hình sửa hẹp khí phế quản là biện pháp tuy thách thức nhưng là tối ưu nhất để điều trị tình trạng này, đặc biệt khi có bệnh tim bẩm sinh kèm theo. Chúng tôi báo cáo một loạt ca bệnh đã được phẫu thuật sửa hẹp đường thở bằng kỹ thuật kéo trượt (sliding) khí/ phế quản kết hợp sửa chữa tim bẩm sinh tại Bệnh viện Tim Hà Nội với kết quản ban đầu khả quan, qua đó nêu ra một số bàn luận về chỉ định, kỹ thuật kéo trượt, cũng như một số điểm lưu ý sau mổ.
#Hẹp đường thở #Kéo trượt khí phế quản #Tim bẩm sinh
NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SẸO HẸP KHÍ QUẢN Ở NGƯỜI LỚN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Mục tiêu: Nhận xét các kết quả điều trị sẹo hẹp khí quản (SHKQ) ở người lớn. Phương pháp: Tổng quan luận điểm. Chúng tôi tìm kiếm trên sở dữ liệu PubMed, thư viện điện tử đại học Y Hà Nội để xác định các bài báo gốc liên quan đến kết quả điều trị phẫu thuật (phẫu thuật nội soi, phẫu thuật cắt nối khí quán, phẫu thuật tạo hình khí quản, nong bằng stent) sẹo hẹp khí quản ở người lớn. Kết quả điều trị chính là tỉ lệ được phẫu thuật bổ sung, rút canuyn thành công nếu trước đó được mở khí quản và tỉ lệ biến chứng. Kết quả: 22 nghiên cứu với 4 nhóm phương pháp phẫu thuật điều trị sẹo hẹp khí quản ở người lớn được chọn vào tổng quan luận điểm này. Kết quả khi điều trị sẹo hẹp khí quản ở người lớn bằng phương pháp phẫu thuật cắt nối khí quản, phẫu thuật nội soi, phẫu thuật tạo hình khí quản, nong bằng stent. Tỉ lệ rút ống canuyn thành công lần lượt là: 60-100%, 43,9-100%, 60-100%, 84,62%. Tỉ lệ cần phẫu thuật bổ sung lần lượt là: 3,57-50%, 18,75-98%, 19,67-66,67%, 25-100%. Tỉ lệ biến chứng tái hẹp lần lượt là: 3,57- 38,89%, 18,75 – 97,62%, 0%, 10,26 – 45,24%; Tỉ lệ biến chứng u hạt lần lượt là: 4,26 - 40%, 2,38%, 40 – 66,67%, 25,64 – 48,81%. Kết luận: Có 4 phương pháp điều trị sẹo hẹp khí quản ở người lớn trong nghiên cứu tổng quan này. Bệnh nhân mắc sẹo hẹp khí quản được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật cắt nối khí quản có tỉ lệ cần phẫu thuật bổ sung thấp hơn so với các phương pháp còn lại. Biến chứng tái hẹp, u hạt là 2 biến chứng hay gặp nhất sau điều trị sẹo hẹp khí quản ở người lớn.
#Sẹo hẹp khí quản khí quản ở người lớn #điều trị sẹo hẹp khi quản
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT SẸO HẸP KHÍ PHẾ QUẢN DO LAO
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Đặt vấn đề: Tại Việt Nam, chúng tôi ghi nhận số công trình nghiên cứu về hẹp khí phế quản (KPQ) do lao còn hạn chế. Việc chẩn đoán vị trí, mức độ, chiều dài đoạn hẹp và các tổn thương kèm theo trong bệnh hẹp KPQ do lao là điều hết sức quan trọng và đóng vai trò quyết đinh cho các chỉ định điều trị phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca trên 48 bệnh nhân hẹp KPQ do lao được điều trị bằng phẫu thuật tạo hình KPQ tại Khoa phẫu thuật lồng ngực, BV Phạm Ngọc Thạch từ 01/01/2015 đến 31/12/2018. Kết quả: 48 BN hẹp KPQ bao gồm: 03 BN hẹp khí quản đoạn 1/3 giữa, 09 BN hẹp phế quản gốc phải, 36 BN hẹp phế quản gốc trái. Nhóm BN hẹp phế quản gốc (PQG), chúng tôi ghi nhận nữ chiếm đa số 91,1% và tuổi trung bình là 30,7 tuổi. Phương pháp phẫu thuật gồm 40% cắt nối KPQ đơn thuần và 60% cắt thùy kèm cắt nối KPQ. Tỉ lệ biến chứng sớm sau mổ là 28,9%, rò khí kéo dài thường gặp nhất 13,3%. Không tử vong trong và sau mổ. Theo dõi sau 12 tháng, tỉ lệ tái hẹp miệng nối là 8,9%. Kết luận: Mặc dù có vài biến chứng, phẫu thuật tạo hình sẹo hẹp khí phế quản do lao có kết quả sớm và trung hạn tốt.
#Lao nội phế quản #hẹp khí phế quản do lao #tạo hình khí phế quản
Tổng số: 29   
  • 1
  • 2
  • 3